Dữ liệu về các loại thuốc giảm cân được FDA phê chuẩn trị béo phì, giảm cân năm 2014


Tập trung vào Bệnh béo phì

Năm ngoái là một năm quan trọng đối với sự chấp thuận của các loại thuốc giảm cân, với naltrexone cộng bupropion (Contrave-Takeda) và liraglutide (Saxenda-Novo Nordisk) chấp thuận cho quản lý cân nặng mãn tính trong tháng Chín và tháng Mười Hai, tương ứng. Hai phê duyệt đã được thêm vào các loại thuốc đã được bán trên thị trường để quản lý cân nặng và cân nặng mất mát-cụ thể, lựa chọn điều trị phentermine cộng topiramate (Qsymia-Vivus) và lorcaserin (Belviq-Arena) -giving bác sĩ lâm sàng lớn hơn để giúp bệnh nhân đạt được một cân nặng cơ thể lý tưởng.




Nhiều bài thuyết trình được tập trung vào dữ liệu đánh giá bốn đại lý cho quản lý cân nặng tại cuộc họp Béo phì năm 2014, được tổ chức ngày 02-ngày 07 Tháng mười một ở Boston, trong đó kết hợp cả hai Hội Bệnh chuyển hóa và Giảm béo bằng phẫu thuật (ASMBS) và Hội béo phì (TOS) hàng năm các cuộc họp. Để biết thêm thông tin về các bài thuyết trình bao gồm một loạt các chủ đề tập trung vào quản lý cân nặng.

Hãy truy cập:

http://obesityweek.com/abstract-information/abstract-archive/
http://onlinelibrary.wiley.com/journal/10.1002/(ISSN)1930-739X

Liraglutide (Victoza)

Giai đoạn mới dữ liệu III cho liraglutide cho thấy chất này được sản xuất giảm cân trên một loạt các loại chỉ số khối cơ thể (BMI) và cải thiện chất lượng sức khỏe liên quan đến cuộc sống.

Liraglutide

Một phân tích của SCALE (Satiety and Clinical Adiposity—Liraglutide Evidence in Non-diabetic and Diabetic people). Béo phì và tiền tiểu đường được tiến hành thử nghiệm để đánh giá hiệu quả và tính an toàn của mỗi ngày một lần uống liraglutide 3 mg, được thêm thức ăn để hổ trợ cho 500 kcal /ngày chế độ ăn uống và chương trình tập luyện, quản lý cân ở bệnh nhân trên một loạt các cơ sở phân nhóm BMI. Bệnh nhân có chỉ số BMI 27 kg / m trở lên và một hoặc nhiều bệnh đi kèm hoặc những người có chỉ số BMI từ 30 mg / kg hoặc hơn được chọn ngẫu nhiên 2: 1 để điều trị tích cực với liraglutide 3 mg hàng ngày (n = 2,487) hoặc giả dược (n = 1,244) và đánh giá ở tuần 56.

Một phân tích nhỏ của COR-BMOD (Phân tích tính an toàn và tính hiệu quả của Naltrexone SR / Bupropion SR và Placebo trong trạng thừa cân và béo phì Đối tượng tham gia trong một chương trình Sửa đổi hành vi tích cực (Behavior Modification Intensive)) nghiên cứu, 56 tuần, ngẫu nhiên, thử nghiệm lâm sàng có kiểm soát nhằm kiểm tra về hiệu quả và độ an toàn của naltrexone cộng bupropion như thuốc hỗ trợ để Sửa đổi hành vi tích cực (BMOD), đã được tiến hành để xác định ảnh hưởng của naltrexone cộng bupropion trong (n = 70) bệnh nhân trắng (n = 313) và người Mỹ gốc Phi. Trong các thử nghiệm ban đầu, cộng với naltrexone bupropion giảm đáng kể cân nặng cơ thể so với giả dược, và có nhiều bệnh nhân naltrexone cộng bupropion nhóm người đã hoàn thành thử nghiệm đạt được một giảm cân 56 tuần 5% trở lên và 10% hoặc nhiều hơn so với giả dược ( P <0 o:p="">

Đặc điểm cơ bản cho các bệnh nhân da trắng và người Mỹ gốc Phi là tương tự nhau về cân nặng cơ thể (khoảng 100,5 kg) và BMI (36,5 kg / m), nhưng độ tuổi khác nhau chút ít giữa các nhóm (màu trắng, 48,7 tuổi; African American 44,5 tuổi). Sau 56 tuần, những đáp ứng giảm cân dùng giả dược là mạnh mẽ hơn ở những bệnh nhân trắng (-9,2% so với -4,9%), nhưng giảm cân tương quan tương tự nhau giữa hai nhóm vớiplacebo (-4.0% so với -4,3% trắng người Mỹ gốc Phi ). Ngoài ra, tính an toàn tương tự nhau giữa các nhóm về tần số và mô hình của các tác dụng phụ và tác dụng phụ nghiêm trọng. Các tác giả kết luận rằng hiệu quả của naltrexone cộng bupropion là không liên quan đến chủng tộc hay sắc tộc.


Thuốc kết hợp Naltrexone cộng bupropion (Contrave)
Hai phân tích riêng biệt đánh giá ảnh hưởng của naltrexone cộng bupropion đã được trình bày, với một kết luận rằng hiệu quả của thuốc này là không liên quan đến chủng tộc hay sắc tộc và các nghiên cứu khác cho thấy rằng naltrexone cộng bupropion có tác dụng trực tiếp vào việc kiểm soát cơn thèm ăn ở bệnh nhân.



Một phân tích nhỏ của COR-BMOD (Phân tích tính an toàn và tính hiệu quả của Naltrexone SR / Bupropion SR và Placebo trong trạng thừa cân và béo phì Đối tượng tham gia trong một chương trình Sửa đổi hành vi tích cực (Behavior Modification Intensive)) nghiên cứu, 56 tuần, ngẫu nhiên, thử nghiệm lâm sàng có kiểm soát nhằm kiểm tra về hiệu quả và độ an toàn của naltrexone cộng bupropion như thuốc hỗ trợ để Sửa đổi hành vi tích cực (BMOD), đã được tiến hành để xác định ảnh hưởng của naltrexone cộng bupropion trong (n = 70) bệnh nhân trắng (n = 313) và người Mỹ gốc Phi. Trong các thử nghiệm ban đầu, cộng với naltrexone bupropion giảm đáng kể cân nặng cơ thể so với giả dược, và có nhiều bệnh nhân naltrexone cộng bupropion nhóm người đã hoàn thành thử nghiệm đạt được một giảm cân 56 tuần 5% trở lên và 10% hoặc nhiều hơn so với giả dược ( P <0 br="">

Đặc điểm cơ bản cho các bệnh nhân da trắng và người Mỹ gốc Phi là tương tự nhau về cân nặng cơ thể (khoảng 100,5 kg) và BMI (36,5 kg / m), nhưng độ tuổi khác nhau chút ít giữa các nhóm (màu trắng, 48,7 tuổi; African American 44,5 tuổi). Sau 56 tuần, những đáp ứng giảm cân dùng giả dược là mạnh mẽ hơn ở những bệnh nhân trắng (-9,2% so với -4,9%), nhưng giảm cân tương quan tương tự nhau giữa hai nhóm vớiplacebo (-4.0% so với -4,3% trắng người Mỹ gốc Phi ). Ngoài ra, tính an toàn tương tự nhau giữa các nhóm về tần số và mô hình của các tác dụng phụ và tác dụng phụ nghiêm trọng. Các tác giả kết luận rằng hiệu quả của naltrexone cộng bupropion là không liên quan đến chủng tộc hay sắc tộc.



Một phân tích tổng hợp của bốn 56 tuần Giai đoạn III thử nghiệm của naltrexone cộng bupropion đã được tiến hành để đánh giá hiệu quả của thuốc này trên Thèm và Mood Sub-quy mô của việc kiểm soát Ăn bảng câu hỏi (CoEQ) và mối quan hệ của nó với việc giảm cân. Thành phần chính của CoEQ bao gồm Ái Control, Ái cho Sweet, Ái cho Savory, và tích cực Mood. Các phân tích được thực hiện ở những bệnh nhân đã hoàn thành 56 tuần điều trị bằng naltrexone cộng bupropion (n = 1238) hoặc giả dược (n = 720) và được đo cân nặng và CoEQ lúc ban đầu và tuần 56.

Các nhà nghiên cứu báo cáo rằng việc sử dụng naltrexone cộng bupropion dẫn đến cải thiện kiểm soát thèm ăn và thèm ngọt so với giả dược, mà là độc lập của việc giảm cân. Họ kết luận rằng những phát hiện này cho thấy rằng naltrexone cộng bupropion có ảnh hưởng trực tiếp đến cảm giác thèm ăn.

Phentermine cộng topiramate (Qsymia)

Hai phân tích riêng biệt của giai đoạn III dữ liệu cho thấy rằng việc sử dụng phentermine cộng topiramate dẫn đến cải thiện các thông số hội chứng chuyển hóa ở bệnh nhân có chỉ số BMI 35 kg/m trở lên và đã đánh giá an toàn và hiệu quả ở những bệnh nhân thừa cân từ 65 tuổi trở lên.




Một phân tích gộp dữ liệu từ hai giai đoạn III thử nghiệm 56 tuần, EQUIP (Dạng thuốc phóng thích có kiểm soát PHENTERMIN và Topiramate ở người lớn béo phì nặng: Một thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát) và CONQUER (Tác dụng ở liều thấp, Dạng thuốc phóng thích có kiểm soát, PHENTERMIN kết hợp thêm Topiramate trên cân nặng và có bệnh lý kèm theo trong nhóm thừa cân và béo phì ở người lớn), đã được tiến hành để đánh giá hiệu quả của phentermine cộng topiramate, được đưa ra như là một thuốc hỗ trợ để thay đổi lối sống, giảm cân và các thông số hội chứng trao đổi chất ở 2.695 bệnh nhân có chỉ số BMI 35 kg/m hoặc hơn . Vào lúc ban đầu, bệnh nhân có cân nặng trung bình của 114 kg, chu vi vòng eo của 120 cm, huyết áp tâm thu là 126 mm Hg, ăn chay glucose là 100 mg / dL, và mức cholesterol 49 mg / dL đối với mật độ cao lipoprotein (HDL ) và 143 mg / dL cho triglycerides. Điều trị với ba liều khác nhau của phentermine cộng topiramate dẫn đến cân nặng hiệu ứng mất -5,1% đến -10.8% so với -1,8% đối với giả dược. Ngoài ra, những thay đổi trong chu vi vòng eo, huyết áp tâm thu, HDL, triglyceride, và mức đường huyết lúc đói là tất cả ý nghĩa so với giả dược.

Một phân tích hậu nghiệm của SEQUEL (Hai năm giảm cân bền vững và lợi ích trao đổi chất với kiểm soát phát hành PHENTERMIN / Topiramate ở người lớn béo phì và thừa cân) thử nghiệm, đó là một trong 52 tuần tiếp tục giai đoạn đến phiên tòa CONQUER, đã được tiến hành để đánh giá những ảnh hưởng của phentermine cộng topiramate trong một quần thể nhỏ của 64 bệnh nhân tuổi từ 65 tuổi trở lên (độ tuổi tại cơ sở, 65,2-70,8 y). Vào lúc ban đầu, bệnh nhân có cân nặng trung bình của 101 kg, chỉ số BMI từ 36 kg / m, và một số bệnh đi kèm, chẳng hạn như tăng huyết áp (67%), rối loạn lipid máu (39%), bệnh tiền tiểu đường (50%), và bệnh tiểu đường loại 2 (20%). Sau khi tổng cộng 108 tuần điều trị, bình phương nhỏ nhất có nghĩa là giảm cân là -8,0% đến -11,4% trong nhóm phentermine cộng topiramate so với -4,3% ở nhóm dùng giả dược. Ngoài ra, tỷ lệ hàng năm của bệnh tiểu đường type 2 ở những người không bị bệnh ở ngưỡng thấp hơn ở những bệnh nhân được điều trị tích cực so với giả dược.

Lorcaserin (Belviq)

Hai bài-hoc phân tích dữ liệu từ ba giai đoạn III thử nghiệm cho thấy rằng việc sử dụng lorcaserin giúp bệnh nhân béo phì chuyển thành các loại thừa cân, và nó có thể được coi là một lựa chọn điều trị khả thi ở những bệnh nhân béo phì trầm trọng cho việc giảm cân presurgery hoặc như là một thay thế tiềm năng phẫu thuật.


Dữ liệu từ các BLOSSOM ( Thay đổi thói quen (Behavioral Modification) và Lorcaserin nghiên cứu thứ hai cho Quản lý Bệnh béo phì), BLOOM ( Thay đổi thói quen (Behavioral Modification) và Lorcaserin cho Thừa cân và béo phì Management), và BLOOM-DM ( Thay đổi thói quen (Behavioral Modification) và Lorcaserin cho Thừa cân và béo phì trong quản lý bệnh tiểu đường) thử nghiệm được phân tích đánh giá hiệu quả của lorcaserin 10 mg, được đưa ra hai lần mỗi ngày, so với giả dược ở những bệnh nhân bị béo phì ở mức cơ bản.

Bệnh nhân được phân thành ba loại: loại I béo phì (30-34,9 kg / m), class II béo phì (35-39,9 kg/m) hoặc hạng III béo phì (≥40 kg/m). Sau 52 tuần điều trị, nhiều bệnh nhân trong nhóm lorcaserin đạt mức BMI dưới 30 kg/m so với giả dược. Lorcaserin là đặc biệt hiệu quả chuyển bệnh nhân được phân loại là lớp tôi béo phì ở mức cơ bản, có hoặc không có bệnh tiểu đường type 2, vào loại thừa cân. Các nhà nghiên cứu đã kết luận rằng những tác động tiềm tàng có thể dẫn đến giảm nguy cơ sức khỏe liên quan đến cân nặng.

Trong một phân tích của ba thử nghiệm tương tự, ảnh hưởng của lorcaserin ở bệnh nhân béo phì nghiêm trọng được đánh giá. Béo phì nghiêm trọng đã được xác định là một chỉ số BMI từ 40 kg / m trở lên hoặc có chỉ số BMI từ 35 kg / m hoặc hơn cộng với một Comorbidity béo phì liên quan đến. Các nhà nghiên cứu lưu ý rằng có nghĩa là giảm cân nhiều hơn ở bệnh nhân được lorcaserin so với giả dược (-5,9% so với -2,6%), và nhiều bệnh nhân trong nhóm lorcaserin đạt mức BMI dưới 35 kg / m ở tuần 52 so với giả dược . Ngoài ra, đánh giá về tỷ lệ bệnh nhân sụt 5% cân nặng hơn ở tuần 12 cho thấy, 47,3% bệnh nhân trong nhóm lorcaserin đạt được điểm cuối này so với 21,9% số bệnh nhân ở nhóm dùng giả dược.

Viết bởi: Maria G. Tanzi, PharmD

Dịch bởi: DS Đạt

Nguồn bài viểt http://www.pharmacist.com/
File song ngữ Anh-Việt
Tài liệu tham khảo thêm
http://obesityweek.com/abstract-information/abstract-archive/
http://onlinelibrary.wiley.com/journal/10.1002/(ISSN)1930-739X
http://obesityweek.com/app/uploads/2015/03/2014-ASMBS-abstracts.pdf