Ô ĐẦU
Tên khoa học: Aconitum sinensePaxt.; Họ mao lương (Ranunculaceae)
Bộ phận dùng: rễ cái (vẫn gọi là củ).
Rễ cái (còn gọi ) là củ mẹ): thu hối vào giữa hay cuối mùa xuân là tốt, nếu để qua mùa thì củ teo và xốp; thu hái về, cắt bỏ rễ con rửa sạch đất, phơi khô.
+ Ở Trung Quốc có nhiều loại cây ô đầu: A. fortuei, A. chinense Paxt, A. carmichaeli, mang nhiều tên khác nhau: xuyên 5 (mọc ở Tứ Xuyên), thảo ô (mọc ở Giang Nam). Tùy theo sinh lý của củ, củ ô đầu cũng có tên gọi khác nhau.
+ Ô nhuế: là ô đầu có hai nhánh ở dưới đế giống như sừng trâu.
+ Trắc tử là vú lớn bên củ phụ tử.
+ Thiên hùng là ô đầu dưới đất lâu năm không sinh đủ con.
+ Ở Việt Nam mới phát hiện lại cây ô đầu và trồng ở Lào Cai với những tên địa phương: củ gấu tầu, củ ấu tầu, có tên khoa học là A.forunei Hamsl (A. chinens Sieb).
+ Ở phương Tây, cây ô đầu được trọng dụng nhất là cây A. napellus L không phân biệt dùng củ mẹ hay củ con, nhưng thu hái ở những thời gian khác nhau, củ mẹ vào cuối xuân, củ con vào cuối thu sang đông.
Nói chung, củ khô, to, da đen, thịt trắng ngà để vào lưỡi thấy tê, không đen ruột là tốt.
Thành phần hóa học: Hoạt chất chính của củ ô đầu là aconitin (chất gây tè đầu lưỡi) và các alcaloid khác. Ngoài ra còn tinh bột, đường, manit, chất nhựa, các acid hữu cờ.
Các cây ô đầu nói chung đều rất độc (thuốc độc bảng A). Nhiều dân tộc các nước xưa và nay dùng ô đầu tẩm độc săn bắn súc vật (kể cả voi). Độc là do chất aconitincủa nó, uống 1mg đến 1,5mg có thể chết người. Trong củ ô đầu rửa sạch phơi khô, người ta quy định phải có 0,5% alcaloid toàn phần phụ thuộc vào loại cây, từng địa phương thu hái, thời gian thu hái, cách chế biến và bảo quản.
Đặc tính của aconitin là rất dễ thủy phân trong dung dịch nước hay cồn ở nhiệt độ thương và với thời gian bảo quản. Với sức nóng (như lùi trong tro nóng), nó càng dễ thủy phân để cho chất benzoylaconin (400 - 500 lần kém độc) rồi aconin (1.000 - 2.000 lần kém độc hơn). Do đó, ta có thể giải thích tại sao nhân dân các vùng có cây ô đầu (Tứ Xuyên - Trung Quốc) dùng củ tươi nấu cháo ăn để trị phong thấp như cơm bữa mà không bị ngộ độc.
Tác dụng: Trừ phong, táo thấp, trừ hàn, trợ dương, bổ hỏa.
Công dụng:
Theo Tây y:
Làm thuốc trị ho, ra mồ hôi.
Theo Đông y:
Trị đau nhức, mỏi chân tay (dùng ngoài); đặc biệt dùng uống trong chứng bán thân bất toại, chân tay co quắp, mụn nhọt lâu ngày.
Liều dùng: Ngày dùng 3 - 4g để sắc.
Kiêng kỵ: không thật trúng phong hàn và phụ nữ có thai thì không nên dùng.
Cách bào chế:
Theo Trung y:
Dùng ô đầu sống hoặc nướng chín hoặc cùng nấu với đậu đen để giảm bớt độc tính tùy từng trường hợp (Lý Thời Trân).
Theo kinh nghiệm Việt Nam:
Tán nhỏ ngâm rượu 5 - 7 ngày để xoa bóp, hoặc tán bột trộn với bột thuốc khác làm thuốc dùng ngoài, ít khi dùng trong.
Bảo quản: thuốc độc bảng A; để trong lọ kín, nơi khô ráo, mát.