Theophyllin ít được dùng trong điều trị hen - Vì sao?


Khi mới ra đời năm 1940, theophyllin là thuốc giãn phế quản lý tưởng cho bệnh phổi tắc nghẽn phế quản. Hiệu quả của các chất chủ vận beta 2 trong bệnh hen đã được chứng minh, tuy nhiên, có một số bằng chứng cho thấy việc sử dụng lâu dài các chất này có thể làm giảm khả năng kiểm soát bệnh hen. Hơn nữa, từ khi người ta biết rõ hơn về cơ chế gây bệnh thì liệu pháp theophyllin dần ít được dùng trong điều trị.
Thay vào đó, glucocorticoid được đưa vào sử dụng và là liệu pháp chủ yếu trong điều trị hen hiện nay.
Mặc dù vậy, vai trò của theophyllin trong điều trị hen vẫn còn đang tranh cãi. Nhìn chung, theophyllin được khuyên dùng cho bệnh nhân bị bệnh co thắt phế quản mạn tính cần giãn phế quản kéo dài, bệnh nhân có triệu chứng về đêm hoặc bệnh nhân phải nằm viện để điều trị bệnh hen.
Ảnh minh họa (nguồn Internet)
Theophyllin là dẫn xuất methylxanthin được sử dụng rộng rãi nhất. Theophyllin có mặt ở nhiều chế phẩm và ở nhiều dạng khác nhau, dạng lỏng và dạng giải phóng ngay. Aminophyllin chủ yếu dùng để tiêm truyền cũng chứa gần 85% theophyllin khan. Oxtriphyllin cũng chứa gần 64% theophyllin khan.
Các phản ứng có hại: Tác dụng phụ của chất chủ vận beta 2 thường nhỏ. Khi hấp thu thuốc từ phổi vào máu tăng, tác dụng toàn thân trở nên rõ rệt hơn. Điều này cũng gặp khi dùng chất chủ vận beta 2 đường uống hoặc tiêm truyền. Tác dụng phụ ở tim mạch có thể nặng, bao gồm đánh trống ngực, nhịp tim nhanh, tăng huyết áp và loạn nhịp. Tác dụng phụ ở đường hô hấp bao gồm: ho, thở khò khè, rối loạn nhịp thở, co thắt phế quản, khô hoặc ngứa họng và viêm thanh quản. Thuốc cũng có thể gây giãn mạch dẫn đến chóng mặt, đau đầu, bốc hỏa, ra mồ hôi... Tác dụng phụ trên hệ thần kinh trung ương gồm lảo đảo, căng thẳng, kích động và mất ngủ. Những tác dụng phụ khác bao gồm cảm giác mùi vị bất thường hoặc khó chịu, chán ăn, hạ kali huyết, toan máu do acid lactic và tân tạo đường.
Hiện nay, các dẫn xuất methylxanthin, đặc biệt là theophyllin có phạm vi trị liệu rất hẹp. Nhiễm độc nặng như co giật, thiếu hụt thần kinh vĩnh viễn và tử vong có thể xảy ra trước khi xuất hiện các tác dụng phụ nhẹ. Đây là lý do cần phải theo dõi nồng độ huyết thanh và khi buộc phải sử dụng thuốc này điều trị hen thì bệnh nhân cần phải có sự giám sát chặt chẽ của thầy thuốc. Các tác dụng phụ nghiêm trọng khác bao gồm nhịp tim nhanh, loạn nhịp, nhịp thở nhanh và rối nhiều hành vi ở trẻ em do kích thích thần kinh trung ương. Những tác dụng phụ nhẹ bao gồm buồn nôn và nôn, chán ăn, tiêu chảy, bồn chồn, ngứa, mất ngủ và đau đầu. Tình trạng lợi tiểu hay xảy ra khi bắt đầu điều trị nhưng thường dung nạp được. Giãn cơ mu bàng quang gây khó tiểu ở nam giới bị phì đại tiền liệt tuyến. Các thay đổi chuyển hóa gồm tăng đường huyết và hạ kali huyết.     
TS.Hải Hà
Theo SK&ĐS